BSCKI Nguyễn Thanh Hùng
2.2.1. Nhận biết các yếu tố liên quan đến tiến triển CKD để dự báo tiên lượng. Các nguyên nhân của CKD, mức độ GFR, mức độ albumin niệu, tuổi, giới, dân tộc/chủng tộc, BP tăng cao, tăng đường máu, rối loạn mỡ máu, hút thuốc, béo phì, tiền sử bệnh tim mạch, liên tục phơi nhiễm với thuốc độc cho thận, và các yếu tố khác. (không phân độ).
GIẢI THÍCH
Lý do để ước tính nguy cơ của suy thận là nó có thể có thể giới thiệu, có kế hoạch điều trị, và các các chiến lược khác, bao gồm tần xuất theo dõi. Các hướng dẫn trước đây đã không đề nghị các công thức tính nguy cơ hoặc sự liên hệ và các nguy cơ tuyệt đối của các kết quả đặc hiệu nhưng với dữ liệu sẵn có gần đây, điều này ngày nay là có thể. Có nhiều yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến khả năng và tốc độ tiến triển CKD bao gồm GFR và albumin niệu, mức độ albumin niệu, nguyên nhân của bệnh thận, phơi nhiễm liên tục với thuốc độc với thận,béo phì, tăng huyết áp, tuổi, chủng tộc/dân tộc và các thông số xét nghiệm như Hb, albumin, calcium, phosphat, và bicarbonat.
Một số các yếu tố nguy cơ đó có thể thay đổi nên được xác định và nếu xuất hiện, được điều trị và chúng có thể ảnh hưởng với kết quả kéo dài bao gồm các điều kiện tim mạch, QOL, và tiến triển của CKD.
Chưa rõ ràng cân nặng có liên quan với cac yếu tố đó trong tiên lượng ở từng cá nhân cho dù anh ta /cô ta có tiến triển bệnh.
Bằng chứng
Tiến triển CKD được định nghĩa cả tiến triển giảm và tiến triển tăng albumin niệu, chúng ta chú ý đến từng yếu tố riêng biệt để tiên lượng hai thành CKD khác nhau đó. Đưa ra cac bằng chứng bị hạn chế, nó sẽ được thảo luận riêng. Tuy nhiên, rõ ràng rằng cac đối tượng có GFR thấp hơn sẽ bắt đầu tiến triển nhanh hơn tới GFR dưới 15 ml/phút/1.73m2, như cac đối tượng tăng cao albumin niệu sẽ tiến triển nhanh hơn tới ACR trên 300 mg/g. Tương tự, chứng ta biết rõ rằng các đối tượng có bệnh lý màng đáy cầu thận sẽ tiến triển đến hội chứng thận hư, trong khi các đối tượng bệnh thận đa nang sẽ tiến triển nhanh hơn đến ESRD.
Mặc dù có nhiều các nghiên cứu cắt ngang mô tả các yếu tố đó liên quan với GFR thấp và các yếu tố liên quan vói albumin niệu cao, một số các nghiên cứu với các yếu tố có liên quan với tiến triển giảm GFR và tiến triển tăng albumin niệu bị hạn chế nhiều hơn. Nhìn chung, được lập luận rằng hầu hết các yếu tố theo dõi ở trên có liên quan với tăng albumin niệu và tiến triển giảm GFR. Gần đây nhất, các nghiên cứu có mục tiêu phát triển các điểm nguy cơ để nhận biết tiến triển giảm GFR và tiến triển tăng albumin niệu. Vãn chưa đánh giá được các công thức tiên lượng tốt nhất được sử dụng. Một số công thức sử dụng đo nhân khẩu học và lâm sàng đơn giản, trong khi số khác có các số đo xét nghiệm. Một số được phát triển cho cộng đồng có nguy cơ cao, những người được biết đến là có CVD, nhìn chung có CKD, hoặc có các nguyên nhân đặc biệt của CKD, như bệnh thận IgA, bệnh thận đái tháo đường, hoặc hẹp động mạch thận. Một số khác phát triển mô hình tiên lượng nguy cơ trong cộng đồng chung. Mô hình sau đó bao gồm tuổi, chủng tốc, giới, tỏng phiên bản phân đôi, sự xuất hiện của thiếu máu, tăng huyết áp, đái tháo đường, tiền sử CKD. Gần nhất, hai nghiên cứu sử dụng các thông số xét nghiệm chính xác thêm vào đặc điểm nhân khẩu học. Nghiên cứu đầu tiên trên bệnh nhân cơ eGFR 15 – 60 ml/phút/1.73m2 trong 1 năm.bao gồm tuổi, giới, eGFR, albumin niệu, calci máu, phosphat, bicarbonate và albumin. Nghiên cứu thứ hai là các đối tượng từ cọng đồng chung và bao gồm tuổi, eGFR, albumin niệu, mức độ huyết áp và ARP. Kết quả từ các mô hình tiên lượng đòi hỏi sự xác nhận trong các nghiên cứu tương lai nhưng đã chứng minh khả năng phát triển sự phân loại lâm sàng ý nghĩa của các nguy cơ cho từng bệnh nhân. Cần có các nghiên cứu để đánh giá các công thức tiên lượng có thể khác nhau cho các dân tộc khác nhau.
Tính thich hợp quốc tế.
Các nghiên cứu mô tả các yếu tố liên quan với GFR thấp hơn và ACR cao hơn đã được mô tả từ khắp nơi trên thế giới. Nhìn chung, có quá nhiều sự chồng chéo dữ liệu. Nó có thể khác nhau ở các phân cửa thế giới có liên quan đến mức độ của các yếu tố tiên lượng tiến triển tăng albumin niệu hoặc giảm GFR có thể khác nhau.
Ảnh hưởng cho thực hành lâm sàng và chính sách xã hội
Điều quan trọng đẻ nhận ra rằng một số yếu tố tiên lượng tiến triển CKD có thể thay đổi. Điều thục sụ này là đánh giá lối sống như bỏ thuốc lá và đề phòng béo phì. Huyết áp thấp trong khoảng cho phép, albumin niệu thấp hơn và đề phòng tăng đường huyết. Các yếu tố sâu hơn có thể thay đổi là nguyên nhân CKD. Nhiều nguyên nhân của CKD ở thời điểm bn đầu khi làm việc với người CKD. Nếu nguyên nhân bệnh được thay đổi, ví dụ bằng điều trị ức chế miễn dịch, sau đó điều trị tiếp theo được chú ý. Điều trị bệnh nhân CKD và làm chậm tiến triển được trình bầy ở chương 3 và hướng dẫn đầy đủ ở KDIGO Clinical Practice Guideline for Glomerulonephritis và KDOQI Clinical Practice Guideline for Diabetes and CKD: 2012 Update
Khu vực tranh luận, nhầm lẫn và không nhầm lẫn
Trong khi các công thức tiên đoán đang sử dụng phối hợp eGFR, albumin niệu, nguyên nhân CKD, và mọt số xét nghiệm bất thường, chúng vẫn không được sử dụng trong thực hành lâm sàng để hướng dẫn điều trị. Xa hơn, trong khi mối liên quan bất thường rõ ràng tăng mức độ ặng của giảm chức năng thận tồi tệ, điều trị để bình thường hóa chứng đã khong làm thay đổi tiến triển đên ESRD. Cần có những công thức tính toán thay đổi theo thời gian (xu hướng) và các yếu tố đặc biệt ổn định hoặc không ổn định. Tuy nhien, có thể đo tiến triển so với tình trạng ổn định của các chỉ số cho cả bệnh nhân và nhà lâm sàng.
Giải quyết các vấn đề và các điểm chính
Các nhà lâm sàng nên đẻ ý đến tình trạng tiến triển hay ổn định của bệnh nhân CKD cho mục đích của điều trị. Các nghiên cứu sẫu hơn được đòi hỏi để xác định các công thức tiên lượng tốt nhất ở người có tiến triển tăng albumin niệu và tiến triển giảm GFR. Các thành phần chính của các công thức tiến triển tới ESRD có thể khá khác nhau với các công thức tiên lượng biến cố tim mạch hoặc tử vong.
Chú ý với trẻ em
Thảo luận chi tiết trong bằng chứng ở trẻ em đưa ra các yếu tố đó như khả năng liên quan với các yếu tố nguy cơ của tiến triển, hơn nữa với trẻ em có các nguy cơ đặc biệt ;à lớn lên và dậy thì, có thể tìm thấy trong chú ý vơi trẻ em trong khuyến cáo 1.3.1.