SÀNG LỌC VÀ CHẨN ĐOÁN VIÊM GAN VIRUS B (US-CDC 2001 tiếp)

US-CDC 2001: Recommendations for Preventing Transmission of Infections Among Chronic Hemodialysis Patients

Người dịch: BSCKI Nguyễn Thanh Hùng – PTTK Hội Lọc máu Việt Nam

1.3. Test sàng lọc và chẩn đoán

1.3.1. Xét nghiệm huyết thanh

Hệ thống kháng nguyên – kháng thể đã được nhận biết rõ ràng liên quan đến nhiễm HBV, gồm HBsAg và anti HBs; kháng nguyên nhân viêm gan B (HBcAg) và anti-HBc; HBeAg và kháng thể HBeAg (anti-HBe). Xét nghiệm huyết thanh phổ biến cho toàn bộ ngoại trừ HBcAg bởi không có tuần hoàn HBcAg trong máu. Một hoặc nhiều dấu ấn huyết thanh đó sẽ xuất hiện trong giai đoạn khác nhau của nhiễm HBV (Bảng 1) (42).

Bảng 1: giải thích kết quả xét nghiệm huyết thanh đối với nhiễm virus viêm gan B
Dấu ấn huyết thanh Giải thích
HbsAg* Anti-HBc& toàn phần IgM$ anti-HBc Anti-HBs#

Đối tượng cảm nhiễm, chưa bao giờ nhiễm

+ Nhiễm cấp, thời gian sớm của ủ bệnh**
+ + + Nhiễm cấp
+ + Hồi phục của nhiễm cấp
+ + Nhiễm trong quá khứ, hồi phục và tạo miễn dịch
+ + Nhiễm mạn
+ Dương tính giả (như đối tượng cảm nhiễm), nhiễm trong quá khứ hoặc nhiễm mạn mức độ thấp
+ Tạo miễn dịch nếu hiệu giá ≥10 mIU/ml
*: Kháng nguyên bề mặt virus viêm gan B

&: Kháng thể với nguyên nhân virus viêm gan B

$: globulin miễn dịch lớp M

#: Kháng thể với kháng nguyên bề mặt virus viêm gan B

**: HBsAg dương tính tạm thời (dưới 18 ngày) có thể phát hiện ở một số bệnh nhân tiêm vaccin

Sự xuất hiện của HBsAg cho thấy nhiễm HBV tiếp diễn và khả năng lây nhiễm cho người khác. Ở người nhiễm mới, HBsAg xuất hiện trong huyết thanh 30- 50 ngày sau phơi nhiễm HBV và thời gian tồn tại thay đổi. HBsAg dương tính tạm thời (dưới 18 ngày) có thể phát hiện ở một số bệnh nhân tiêm phòng vaccin (50, 51). Kháng thể anti-HBc hình thành ở toàn bộ người nhiễm HBV, marker đại diện cho hình thành triệu chứng hoặc xét nghiệm gan bất thường ở người nhiễm HBV cấp, tăng nhanh đến mức độ cao, và bền bỉ suốt đời. Nhiễm cấp hoặc gần có thể phân biệt bằng sự xuất hiện của của globulin miễn dịch lớp M (IgM) của anti HBc, tính kéo dài bền bỉ  trong khoảng 6 tháng.

Ở người hồi phục sau nhiễm HBV, HBsAg được thải bỏ khỏi máu, thường 2 – 3 tháng, và anti-HBs hình thành trong quá trình dưỡng bệnh. Sự xuất hiện của anti-HBs chỉ ra khả năng miễn dịch đối với nhiễm HBV. Sau khi hồi phục từ nhiễm tự nhiên, hầu hết người sẽ dương tính với cả anti-HBs và anti-HBc, trong khi đó, chỉ có anti-HBs hình thành ở người tiêm vaccin ngừa viêm gan B. Người nhiễm HBV không hồi phục và trở thành nhiễm mạn tính vẫn dương tính với HBsAg (và anti-HBc), dù một tỷ lệ nhỏ (0.3% mỗi năm) thanh thải hoàn toàn HBsAg và hình thành anti-HBs (45).

Một số người, chỉ một dấu ấn anti-HBc được phát hiện (anti-HBC đơn độc). Ở hầu hết người không triệu chứng tại Hoa Kỳ được xét nghiệm HBV, trung bình 2% (khoảng 0.1-6%) xét nghiệm dương tính anti-HBC đơn độc (52); ở người sử dụng tiêm ma túy, tuy nhiên, tỷ lệ lên đến 24% (53). Nhìn chung, tần xuất anti-HBc đơn độc là trực tiếp liên quan đến nhiễm HBV trước đây ở cộng đồng và có thể có nhiều giải thích. Dạng này có thể diễn ra sau nhiễm HBV ở người đã hồi phục nhưng mức độ anti-HBs ở mức cảnh báo hoặc ở người mất khả năng hình thành anti-HBs. Người ở phân nhóm sau gồm những người có HbsAg ở mức độ không thể phát hiện bằng những xét nghiệm hiện nay. Tuy nhiên, HBV DNA đã được phát hiện <10% người anti-HBc đơn độc, và những ngược đó dường như là nhiễm với ngoại lệ khác dưới các điều kiện không bình thường gồm phơi nhiễm trực tiếp qua da với số lượng máu lớn (như truyền máu) (54). Ở hầu hết người với anti-HBc đơn độc, kết quả xuất hiện là dương tính giả. Dữ liệu từ nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng đáp ứng anti-HBs chính hình thành ở hầu hết người sau tiêm 3 liều vaccin viêm gan B (55, 56). Không có dữ liệu tồn tại trên đáp ứng với tiêm vaccin ở bệnh nhân lọc máu với dạng huyết thanh này.

Một kháng nguyên thứ 3, HBeAg, có thể được phát hiện trong huyết thanh của người nhiễm HBV cấp hoặc mạn. Sự xuất hiện của HBeAg tương quan với khuếch đại virus và mức độ virus cao. Anti-HBe tương quan với mất khả năng sao chép virus và mức độ virus thấp hơn. Tuy nhiên, người HBsAg dương tính nên được coi là có khả năng lây nhiễm, bất kể tình trạng HBeAg hay anti-HBe của họ.

1.3.2. Xét nghiệm DNA

Nhiễm HBV có thể được phát hiện bằng xét nghiệm định tính hoặc định lượng cho HBV DNA. Những xét nghiệm đó không được tiếp cận bởi FDA và được sử dụng phổ biến nhất cho bệnh nhân quản lý điều trị kháng virus (49, 57).

Nội dung trước Trở lại mục lục Nội dung tiếp theo