HÌNH THÁI LÂM SÀNG VÀ DIỄN BIẾN TỰ NHIÊNVIÊM GAN VIRUS C TRONG THẬN NHÂN TẠO – US-CDC 2001

US-CDC 2001: Recommendations for Preventing Transmission of Infections Among Chronic Hemodialysis Patients

Người dịch: BSCKI Nguyễn Thanh Hùng – PTTK Hội Lọc máu Việt Nam

Hiện nay, đã có hướng dẫn mới nhất về của KDOQI 2022 Hướng dẫn Thực hành Lâm sàng Phòng ngừa, Chẩn đoán, Đánh giá và Điều trị viêm gan virus C trong Bệnh thận mạn. Bạn đọc nên cập nhật để có thông tin chi tiết nhất. Chúng tôi vẫn giữ nguyên toàn văn của CDC 2001 này với mục đích tôn trọng bản hướng dẫn này. 

2.2. Hình thái lâm sàng và diễn biến tự nhiên

HCV gây viêm gan cấp và mạn. Thời gian ủ bệnh từ 14 đến 180 ngày (trung bình 6 – 7 tuần) (116). Người nhiễm HCV cấp mới thường biểu hiện bệnh không triệu chứng hoặc có một vài triệu chứng nhẹ. Thời gian nhiễm HCV cấp khá thay đổi, cho dù ALT huyết thanh tăng, nhưng thường rất dao động, là một hình thái đặc trưng nhất. Suy gan nặng sau viêm gan C cấp là khá hiếm.

Hầu hết (trung bình 94%) bệnh nhân thận nhân tạo nhiễm HCV mới cấp có tăng ALT huyết thanh (117-121). Tăng cao ALT huyết thanh thường có trước khi có chuyển đổi huyết thanh anti-HCV. Ở đối tượng nhiễm HCV sau truyền máu, tăng ALT có trước khi có chuyển đổi huyết thanh (đo bằng thế hệ xét nghiệm thứ 2) là 59%, và anti-HCV có thể phát hiện ở hầu hết bệnh nhân (78%) trong vòng 5 tuần sau lần tăng ALT đầu tiên (122). Tuy nhiên, tăng ALT hoặc AST có thể diễn ra mà không liên quan đến virus viêm gan, so sánh với ALT, AST là yếu tố chỉ thị ít đặc hiệu hơn trong bệnh gan liên quan đến HCV ở bệnh nhân thận nhân tạo. Trong một điều tra vụ bùng nổ gần đây, chỉ 28% trong 25 bệnh nhân thận nhân tạo mới nhiễm quan sát thấy tăng cao nồng độ AST là có xét nghiệm anti-HCV dương tính (CDC, dữ liệu không công bố, 1999).

Sau nhiễm HCV cấp, 15 – 25% người có tình trạng miễn dịch bình thường hồi phục mà không để lại di chứng khi được xác định bằng HCV RNA bền vững trong huyết thanh và ALT bình thường hóa (123). Ở một số người, mức độ ALT trở về bình thường, đề nghị hồi phục hoàn toàn, nhưng lần trở về bình thường nay mà sau đó xuất hiện các lần tăng ALT sẽ chỉ ra tiến triển của bệnh gan mạn. Nhiễm HCV mạn hình thành ở hầu hết người bị nhiễm (75-85%) Trong số những người nhiễm HCV mạn, 60-70% có tăng ALT bền bỉ hoặc từng đợt, chỉ ra dấu hiệu của bệnh gan hoạt động (123). Dù tỷ lệ bệnh gan mạn tương tự được quan sát ở bệnh nhân thận nhân tạo nhiễm HCV (dựa trên kết quả sinh thiết gan), những bệnh nhân đó có lẽ ít có bằng chứng sinh hóa của bệnh gan hoạt động (124). Trong các nghiên cứu huyết thanh ở bệnh nhân thận nhân tạo, tăng ALT đã được báo cáo với trung vị là 33.9% (khoảng: 6% – 73%) ở bệnh nhân xét nghiệm anti-HCV dương tính (117, 124 – 136).

Không có các hình thái lâm sàng hoặc dịch tễ ở bệnh nhân nhiễm cấp nào được báo cáo để tiên lượng nhiễm một cách bền bỉ hoặc bệnh gan mạn. Hầu hết các nghiên cứu đã báo cáo rằng hình thành xơ gan ở 10 – 20% người có viêm gan C mạn trong vòng 20 – 30 năm, và ung thư tế bào gan ở 1 – 5% (123). Những biểu hiện ngoài gan của nhiễm HCV mạn được chú ý là bệnh lý miễn dịch, bao gồm tăng cryoglobulin máu, viên cầu thận tăng sinh màng, và rối loạn chuyển hóa porphyrin (137).

Ít nhất có 6 genotype khác nhau và trên 90 phân nhóm HCV, với genotype tuýp 1 là phổ biến nhất tại Hoa Kỳ (138, 139). Không giống như HBV, nhiễm một genotype hoặc phân nhóm HCV không có khả năng phòng ngừa tái nhiễm hoặc siêu nhiễm với chuỗi HCV khác (139).

Alpha interferon đơn độc hoặc phối hợp với ribavirin được FDA cấp phép cho điều trị viêm gan C mạn (48, 140, 141). Điều trị phối hợp nên được sử dụng với cân nhắc ở bệnh nhân có độ thanh thải creatinin < 50 mL/phút và nhienf chung là chống chỉ định ở bệnh nhân suy thân )141, 142). Kết quả của đơn điều trị interferon có tỷ lệ đáp ứng virus bền vững thấp (141, 142).

Nội dung trước Trở lại mục lục Nội dung tiếp theo