Lược dịch: BSCKI Nguyễn Thanh Hùng – PTTK VDA
Hướng dẫn 23 | Trở lại mục lục | Hướng dẫn 25 |
Tuyên bố: Phòng ngừa nhiễm trùng liên quan đến CVC chung và sử dụng các chương trình giám sát nhiễm trùng và Đội kiểm soát nhiễm khuẩn
24.1. KDOQI cân nhắc điều hợp lý đối với một chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn bao gồm đội giám sát nhiễm khuẩn để theo dõi, kiểm tra (với một cơ sở dữ liệu điện tử), hỗ trợ phòng ngừa, đánh giá kết quả nhiễm trùng đường vào mạch máu và, đặc biệt nhiễm trùng liên quan đến CVC. (Quan điểm chuyên gia)
Giải thích/Tổng quan
Chìa khóa cho việc giảm thiểu nhiễm trùng ở bệnh nhân HD là tích hợp chương trình này vào chương trình giám sát nhiễm khuẩn. Có nhiều tài liệu nghiên cứu đã ghi nhận rằng chương trình giám sát nhiễm khuẩn có thể hỗ trợ việc nhận biết nhiễm trùng liên quan đến CVC và tiến hành các điều tra kịp thời để theo dõi và điều trị nhiễm trùng liên quan đến CVC và duy trì các chiến lược phòng ngừa nhiễm trùng liên quan đến CVC [572-574]. Các chương trình giám sát nhiễm trùng thành công yêu cầu đội ngũ và nguồn lực riêng (bao gồm sử dụng hệ thống theo dõi nhiễm trùng điện tử) để theo dõi các thông số đo kết quả lâm sàng như tỷ lệ CRI, nhập viện, và tử vong [572]. Đặc biệt Mạng lưới An toàn Y tế Quốc gia của CDC đối với việc giám sát nhiễm trùng dòng máu đã được công nhận. Đội ngũ đa ngành có thể cho thấy vai trò quan trọng trong thực hiện các chương trình giám sát hiệu quả [575]. Có một điều dưỡng chuyên về đường vào mạch máu hoặc người hợp tác để hỗ trợ bác sỹ và nhân viên quản lý CRI đã được báo cáo là làm giảm tỷ lệ hỏng CVC và tử vong do nhiễm trùng nặng [177-179]. Tuy nhiên, có lẽ chiến lược hiệu quả nhất để giảm CRI là tránh sử dụng CVC. Các nghiên cứu trước đây đã báo cáo rằng các chương trình mà đã thực hiện việc hiệp đồng đường vào mạch máu và các quy trình đường vào mạch máu tăng sử dụng AVF như một loại đường vào mạch máu ban đầu khi bắt đầu DG và giảm số lượng ngày CVC [186].
Phòng ngừa đặc hiệu CRI
Theo dõi thường xuyên như Hướng dẫn 20 được yêu cầu cho phòng ngừa các biến cứng CVC, bao gồm cả CRI.
Tuyên bố: Giám sát vi khuẩn cư trú trên CVC và quản lý CRBSI bao phủ.
24.1. Không có đủ bằng chứng để hộ trợ việc nuôi cấy giám sát CVC thường xuyên đối với vi khuẩn cư trú và sử dụng dịch hóa kháng sinh bao phủ nếu kết quả nuôi cấy dương tính.
Giải thích/Tổng quan
Giám sát vi khuẩn cư trú trên CVC
CVC thường hình thành màng sinh học trên bề mặt bên trong, thường trong vòng 24 giờ khi chúng xâm nhập. Vi khuẩn cư trú trong màng sinh học là nguồn chính của CRBSI ở bệnh nhân HD qua CVC. Dường như nếu gánh nặng vi khuẩn trong màng sinh học là cao, khiến cho nuôi cấy giám sát nòng CVC dương tính. Một tiếp cận có thể để phòng ngừa CRBSI ở bệnh nhân có CVC là tiến hành nuôi cấy nòng CVC ngay trước buổi lọc máu HD. Về mặt giả thuyết, nếu kết quả nuôi cấy dương tính, bệnh nhân có thể được chỉ định liệu trình dịch khóa kháng sinh trong nòng catheter để loại bỏ vi khuẩn trong màng sinh học.
Giải thích chi tiết
Tiếp cận này được đánh giá trong một nghiên cứu quan sát đơn trung tâm với 104 bệnh nhân CVC đường hầm ở một bệnh viện tại Tây Ban Nha [576]. Trong giai đoạn can thiệp 1 năm, bệnh nhân thực hiện việc giám sát bằng nuôi cấy máu từ nòng catheter mỗi 15 ngày. Nếu kết quả nuôi cấy thấy phát triển chủng vi khuẩn Staphylococcus coagulase âm tính trong vòng 14 giờ hoặc nếu thấy tác nhân gây bệnh khác (S. aureus, Enterococcus, hoặc vi khuẩn Gram âm) ở bất kỳ thời điểm nào, bệnh nhân sẽ được điều trị dịch khóa kháng sinh trong vòng 2 tuần ở cuối mỗi buổi HD. Kết quả chính, CRBSI, xảy ra ở tần xuất 0.27 lần/1000 ngày CVC trong giai đoạn can thiệp so với 1.65 lần/100 ngày CVC trong giai đoạn đối chứng trước đó (không giám sát bằng nuôi cấy máu). Các tác giả kết luận rằng tiếp cận này có thể phân loại bệnh nhân có nguy cơ CRBSI cao, có lẽ sẽ nhận được lợi ích từ dịch khóa kháng sinh dự phòng. ERT đã phân loại chất lượng bằng chứng của nghiên cứu này là rất thấp, với nguy cơ thiên lệch trung bình.
Các thảo luận cụ thể và cân nhắc thực hiện
Ủy ban KDOQI Work Group có một vài mối lo lắng về tiếp cận này, như sau:
– Chất lượng bằng chứng được phân loại là rất thấp bởi ERT
– Đây không phải là một RCT, và nguy cơ thiên lệch trung bình. Nhóm can thiệp được so sánh với nhóm chứng trong tiền sử, tăng khả năng giảm CRBSI là do việc chú ý đến kỹ thuật vô khuẩn, hơn là do giám sát và dịch khóa kháng sinh bao phủ.
– Đây là một tiếp cận tốn nhiều công sức và chi phí. Đặc biệt, trong thời gian nghiên cứu, 1.734 mẫu máu nuôi cấy, với 94.2% kết quả âm tính, và 4.6% thấy chủng Staphylococcus âm tính coagulase trên 14 giờ. Nói cách khác, chỉ 1.2% kết quả nuôi cấy là được điều trị với dịch khóa kháng sinh. Tiếp cận này có vẻ không khả thi trong ứng dụng lâm sàng. Rõ ràng, tiếp cận nuôi cấy giám sát CVC rộng rãi đối với CRI là không khả thi trong thực hành lâm sàng thông thường. Tuy nhiên, các nghiên cứu thêm sẽ xác định thêm các phân nhóm bệnh nhân có thể nhận được lợi ích từ nuôi cấy giám sát CVC thường xuyên và điều trị CRBSI bảo phủ.
– Điều quan trọng cần nhấn mạnh răng nuôi cấy giám sát CVC là khác với giám sát CRI (mà KDOQI Work Group ưu tiên hơn với theo dõi, và được hỗ trợ mạnh).
Nghiên cứu trong tương lai
– Nghiên cứu thêm để xác định phân nhóm bệnh nhân nhận được lợi ích từ nuôi cấy giám sát CVC và điều trị CRBSI bao phủ (như đã đề cập), thiết kế và thực hiện nghiên cứu nghiêm ngặt để xác định hiệu quả nuôi cấy giám sát CVC và chiến lược điều trị CRBSI bao phủ cho các phân nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao.
Tuyên bố: Các phương pháp phòng ngừa CRBSI
Chiến lược bên ngoài nòng CVC
Xem Hướng dân 11, 21, và 24 ở phần Các cân nhắc Quy trình nối và tháo kết nối hệ thống CVC và phần “Phòng ngừa suy chức năng CVC”.
Các chiến lược bên trong nòng CVC
24.3. KDOQI đề nghị rằng lựa chọn sử dụng dịch khóa kháng sinh dự phòng cụ thể được cân nhắc ở bệnh nhân cần CVC lâu dài, người có nguy cơ CRBSI cao (như nhiều lần CRBSI trước đó), đặc biện ở đơn vị lọc máu có tỷ lệ CRBSI cao (>3.5/1000 ngày CVC). (Khuyến cáo có điều kiện, Chất lượng bằng chứng thấp đến trung bình).
Chú ý: Dưới từng trường hợp và khi đưa vào dữ liệu hiện tại, KDOQI cân nhắc điều hợp lý đối với sử dụng các kháng sinh đặc biệt dự phòng: cefotaxim, gentamicin hoặc cotrimoxazole (TMP-SMX). KDOQI không thể hỗ trợ sử dụng dịch khóa kháng sinh dự phòng với bằng chứng hỗ trợ rất thấp (Bảng 24.1).
24.4. KDOQI đề nghị rằng lựa chọn sử dụng dịch khóa kháng khuẩn dự phòng cụ thể có thể được cân nhắc ở bệnh nhân cần CVC lâu dài , người mà có nguy cơ CRBSI cao (như nhiều lần CRBSI trước đó), đặc biện ở đơn vị lọc máu có tỷ lệ CRBSI cao (>3.5/1000 ngày CVC). (Khuyến cáo có điều kiện, Chất lượng bằng chứng thấp đến trung bình).
Chú ý: Dưới từng trường hợp và khi đưa vào dữ liệu hiện tại, KDOQI có thể hỗ trợ sử dụng xanh methylene dự phòng. KDOQI không thể hỗ trợ sử dụng dịch khóa kháng khuẩn dự phòng với bằng chứng hỗ trợ rất thấp (Bảng 24.1).
24.5. KDOQI đề nghị rằng lựa chọn sử dụng một lần một tuần dịch khóa CVC dự phòng với thuốc tiêu huyết khối (TPA tái tổ hợp) có thể được cân nhắc ở bệnh nhân cần CVC lâu dài, người mà có nguy cơ CRBSI cao, đặc biện ở đơn vị lọc máu có tỷ lệ CRBSI cao (>3.5/1000 ngày CVC). (Khuyến cáo có điều kiện, Chất lượng bằng chứng trung bình).
Chú ý: Dưới từng trường hợp và khi đưa vào dữ liệu hiện tại, KDOQI có thể hỗ trợ sử dụng TPA tái tổ hợp dự phòng.
Chú ý: Bệnh nhân nguy cơ cao là người có CRBSI nhiều lần từ trước, mang tụ cầu vàng trong mũi.
Giải thích/Tổng quan
Ở bệnh nhân có CVC, màng sinh học vi khuẩn bao phủ bề mặt bên trong của CVC là nguồn chủ yếu của CRBSI [577]. Đưa một dịch khóa kháng sinh hoặc kháng khuẩn (kết hợp với một chất chống đông) vào trong nòng CVC ở cuối mỗi buổi lọc máu HD có thể làm giảm CRBSI qua việc vô trùng màng sinh học.
Giải thích chi tiết
Nắp kháng khuẩn CVC
Vui lòng xem phần thảo luận về nắp ClearGuard ở Hướng dẫn 21, phần giải thích chi tiết (đầu kết nối hỗ trợ để phòng ngừa suy chức năng catheter).
Dung dịch khóa trong nòng CVC
Vui lòng xem phần thảo luận trong Hướng dẫn 21, phần giải thích chi tiết (những thuốc trong nòng CVC khác để phòng ngừa suy chwucs năng CVC).
Các RCT đã công bố đánh giá một số lượng lớn dung dịch khóa kháng sinh cho CVC (gentamycin, cegazolin, cefotaxime, vancomycin, linezolid, vancomycin phối hợp với gentamycin, cefazolin phối hợp với gentamycin, cotrimoxazole (TMP-SMX), minocycline, hoặc dung dịch khóa CVC kháng khuẩn (taurolidine, citrate 30%, ethanol, EDTA, xanh methylene). Hầu hết trong số chúng (thời gian nghiên cứu ngắn) đã chứng minh tần suất CRBSI thấp hơn đáng kể với việc sử dụng dung dịch khóa kháng sinh hoặc kháng khuẩn, so sánh với dung dịch khóa chống đông (như là heparin) (Bảng 24.1). Có bằng chứng rằng, nhìn chung, giảm CRBSI với một dung dịch khóa CVC kháng sinh hoặc kháng khuẩn là lớn nhất ở các nghiên cứu quan sát tỷ lệ CRBSI tương đối cao ở nhóm chứng (chỉ dùng dung dịch kháo chống đông).
Các thuốc khóa kháng sinh mà có bằng chứng thấp nhất là trung bình để dự phòng CRI được thảo luận ở các phần dưới đây.
Cefotaxime
Nhiễm trùng liên quan CVC toàn bộ (bao gồm CRBSI) dựa vào thời gian sống là thấp hơn đáng kể với dịch khóa cefotaxime so với dịch khóa heparin ở CVC đường hầm [578]. Bốn RCT so sánh dịch khóa cefotamine (10mg/ml) và heparin (5000IU/ml) với dịch khóa heparin (5000 IU/ml) đơn độc [578-582]; trong đó, 3 nghiên cứu cụ thể sử dụng CVC đường hầm có cuff (N=30 [579] đến hơn 100, [581, 582] theo dõi trong vòng 2 đến 12 tháng). Tổng cỡ mẫu không thể xác định bởi vì tính không rõ ràng về việc phân chia báo cáo cho cộng đồng bệnh nhân người cao tuổi và người đái tháo đường. Nghiên cứu thứ 4 [580] với n = 208 lựa chọn cả CVC không đường hầm, ngắn hạn (NT-CVC).
Hai nghiên cứu báo cáo rằng tỷ lệ tử vong liên quan đến CRBSI là thấp hơn ở các nhóm dịch khóa cefotaxime so với nhóm dịch khóa heparin. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở một nghiên cứu (10% so với 21%; OR, 0.43; 95% CI, 0.18-1.03) [582]. Ở nghiên cứu khác, có ý nghĩa thống kê ở nhóm người cao tuổi (12% so với 31%; OR, 0.31; 95% CI, 0.12-0.81) [582] nhưng không đối với nhóm người bệnh đái tháo đường (10% so với 23%; OR, 0.37; 95% CI, 0.12-1.17) [581].
Phạm vi tỷ lệ CRBSI ở cả nhóm chứng và nhóm cefotaxime là tương đối lớn [578], dù quan sát là tương tự ở các nghiên cứu ở đối tượng người cao tuổi (1.7 mỗi 1000 ngày CVC [cefotaxime] so với 3.6 mỗi 1000 ngày CVC [heparin]) và đối tượng người đái tháo đường (1.6 mỗi 1000 ngày CVC [cefotaxime] so với 3.7 mỗi 1000 ngày CVC [heparin]) [581, 582]. Tỷ lệ sống không nhiễm trùng thấy cao hơn đáng kể ở nhóm dịch khóa cefotaxime so với nhóm dịch khóa heparin (Hình 24.1).
Ở nghiên cứu NT-CVC, tỷ lệ CRBSI là thấp hơn có ý nghĩa ở nhóm dịch khóa cefotaxime (1.7 mỗi 1000 ngày CVC [cefotaxime] so với 3.1 mỗi 1000 ngày CVC [heparin]) [580]. Nghiên cứu này báo cáo tỷ lệ CRBSI theo vị trí CVC [580] và phát hiện tỷ lệ CRBSI đối với CVC tĩnh mạch đùi (2.16 so với 5.78/1,000 ngày CVC; P = 0.0001), tĩnh mạch dưới đòn (1.16 so với 2.43/1,000 ngày CVC; P = 0.046), và tĩnh mạch cảnh trong (1.62 so với 3.25/1,000 ngày CVC; P = 0.036) là thấp hơn ở người dùng dịch khóa cefotaxime.
Xem bảng ở phần này cho thấy chất lượng bằng chứng và thiên lệch của nghiên cứu [578-582].
Gentamicin
Tỷ lệ CRI là thấp hơn ở nhóm dịch khóa gentamicin/chống đông so với dịch khóa heparin đơn độc.
4 RCT [583-588] và 3 nghiên cứu quan sát [587-589] đánh giá dịch khóa gentamicin phối hợp thuốc chống đông với dịch khóa chống đông đơn độc để phòng ngừa CRI [583, 585, 586, 590]. Một nghiên cứu so sánh gentamicin với minocycline/EDTA [585] và dịch khóa khác với dịch khóa taurolidine [534] (Bảng 24.1).
4 RCT lựa chọn tổng cộng 555 (trong khoảng, 41 – 303) đối tượng, và theo dõi tổng số ngày CVC trong khoảng từ thấp hơn 3.300 trong 2 thử nghiệm [583, 585], xấp xỉ 18.000 ngày ở 1 nghiên cứu [586], và gần 40.000 ngày trong 1 thử nghiệm [590]. Hai thử nghiệm đã được thực hiện tại Anh Quốc [583, 590], 1 thử nghiệm thực hiện tại Hoa Kỳ[ơ585], và 1 thử nghiệm tại Trung Quốc [586]. 3 thử nghiệm so sánh dịch khóa gentamycin 4 hoặc 5 mg chứa trong citrate 3% hoặc heparin (5000 – 5500 IU/ml) với dịch khóa heparin đơn độc (5000 – 5500 IU/ml) [583, 585, 586]. 1 thử nghiệm (n=303) so sánh dịch khóa gentamicin nồng độ thấp là 320 μg/mL chứa trong citrate 4% với dịch khóa heparin nồng độ thấp là 1000 IU/mL [590].
Tổng thể, 4 RCT cho thấy giảm có ý nghĩa tỷ lệ phát sinh CRBSI ở các nhóm dịch khóa gentamicic/chống đông so với nhóm heparin (RR, 0.18; 95% CI, 0.07- 0.46]) [583, 585, 586, 590]. Không có khác biệt có ý nghĩa ở tỷ lệ phát sinh nhiễm trùng chân CVC [585, 586, 590].
Nguy hại liên quan với quy trình phòng ngừa báo cáo là rải rác, và biến cố là ít (Bổ sung 3, Bảng S244).
Co-trimoxazole (TMP-SMX)
Một RCT đơn tuyển chọn bệnh nhân lưu hành CVC dưới đòn (đường hầm) và so sánh dịch khóa co-trimoxazole (trimethoprim-sulfamthazone [TMP-SMX]) 10 mg/ml) và heparin (2500 IU/mL) với dịch khóa heparin 2500 IU/ml đơn độc [591]. Trung vị thời gian là 45 ngày ở nhóm can thiệp và 31 ngày ở nhóm chứng, với thời gian theo dõi 6 đến 12 tháng.
CRBSI xảy ra ở 4% trong nhóm TMP-SMX (0.58/1000 ngày CVC) và 27% ở nhóm chứng (4.4/1000 ngày CVC) (P=0.002). Tỷ lệ sống không CRBSI tích lũy sau 36 ngày là cao hơn đáng kể với nhóm TMP-SMX (77%) so sánh với nhóm heparin (47%) (P=0.02). Không có tử vong liên quan đến CRBSI. 2 trong 41 đối tượng (5%) ở nhóm heparin nhập viện sau phát hiện S.aureus kháng với cotrimoxazole. Không có phản ứng bất lợi do dung dịch khóa TMP-SMX.
Dịch khóa TPA hàng tuần
Một RCT mù đôi, đa trung tâm tại Canada (N=225 bệnh nhân) ở CVC phát sinh so sánh dịch khóa TPA một lần mỗi tuần (1mg mỗi nhánh CVC) và dịch khóa heparin (5000 IU/ml) hai lần mỗi tuần so với dịch khóa heparin 3 lần mỗi tuần. Trong thời gian theo dõi 6 tháng, CRBSI chẩn đoán xác định hoặc nghi ngờ xảy ra ở xấp xỉ bằng một phần ba của tỷ lệ bệnh nhân dùng dịch khóa TPA hàng tuần khi so sánh với dịch khóa heparin tiêu chuẩn (4.5% so với 13%. Tần xuất CRBSI là 0.4 và 1.37 mỗi 1000 ngày CVC, tương ứng.
Dịch khóa Xanh methylene.
Một RCT mở nhãn, đa trung tâm tại Hoa Kỳ (N=407) so sánh dịch khóa chứa 0.15% xanh methylene, 0.15% methylparaben, và sodium citrate 7% với dịch khóa heparin tiêu chuẩn (5000 IU/ml) [592]. Bệnh nhân được theo dõi 6 tháng với tổng cộng 49.565 ngày CVC. CRBSI là thấp hơn có ý nghĩa ở nhóm dịch khóa xanhmethylen so với nhóm heparin (0.24 so với 0.82/1000 ngày CVC; P=0.005). Không có khác biệt trong can thiệp hồi phục độ thông thoáng CVC giữa các nhóm (16.4 so với 14.8%, P=0.38). Chú ý, sau nghiên cứu và đào tạo lại thực hành tốt nhất thiết lập thực hành cơ bản để thực hiện nghiên cứu này, nhóm chứng đạt được tỷ lệ CRBSI thấp là 0.8 lần/1000 ngày CVC.
Bảng các nghiên cứu, chất lượng bằng chứng, và nguy cơ thiên lệch cho phần này được trình bầy trong Bổ sung 3, Bảng S179, S181, S237-S239, và S240-S251.
Thảo luận cụ thể
Nhiều RCT đã thấy rằng sử dụng dịch khóa kháng sinh hoặc kháng khuẩn dự phòng làm giảm tần suất CRBSI, khi so sánh với dịch khóa heparin đơn độc. Từ nghiên cứu thời gian ngắn đó, tiếp cận này dường như là khá hấp dẫn. Tuy nhiên, còn một vài lo lắng. Đầu tiên, một phần nhỏ dung dịch khóa trong nòng CVC rò rỉ vào hệ thống tuần hoàn và có thể gây độc. Ví dụ, dịch khóa gentamicin đậm đặc gây độc cho tai ở một phân nóm bệnh nhân trong 1 nghiên cứu [609]. Tương tự, citrate 30% có thể gây hạ calci máu toàn thân, biểu hiện rối loạn cảm giác ở 15% bệnh nhân trong một nghiên cứu [506]. Quan trọng hơn, Work Group lo lắng về khả năng của sử dụng dịch khóa kháng sinh dự phòng lâu dài sẽ dẫn đến nhiễm vi khuẩn kháng thuốc. Có những báo cáo mâu thuẫn về khả năng của dịch khóa gentamicin dự phòng trong sử dụng lâu dài. Landry và cộng sự [610] đã ghi nhận vấn đề này, nhưng 2 nghiên cứu lớn khác đã không quan sát thấy biến chứng đó [584, 589].
Cân nhắc sử dụng dịch khóa kháng sinh hạn chế cho bệnh nhân nguy cơ cao như đã được định nghĩa bởi nhóm nguy cơ cao đã được nghiên cứu trong các thử nghiệm và được tổng hợp bởi ERT; đó là, bệnh nhân có nhiều lần CRBSI từ trước và mang S.aureus ở mũi; nhưng bệnh nhân có nguy cơ khác không được xác định. Ngưỡng cơ sở để sử dụng chiến lược dự phòng trong nòng CVC không được xác thực và được thảo luận lâu bở Work Group. Work Group đã đưa ra mốc là ≥ 3.5/1000 ngày CVC dựa vào các tài liệu có từ trước, các nguồn thực hiện, và thấy rằng tỷ lệ CRBSI cao có thể và sẽ giảm, ban đầu với đào tạo lại và sử dụng thực hành chăm sóc CVC và kiểm soát nhiễm khuẩn tốt nhất [579, 592, 611].
Các cân nhắc thực hiện
Lo ngại có thể về lựa chọn dịch khóa kháng sinh đối với vi khuẩn kháng kháng sinh khiến Ủy ban Work Group do dự khuyến cáo dung dịch khóa kháng sinh. Do đó, khuyến cáo của chúng tôi là sử dụng dịch khóa kháng sinh dự phòng ở những bối cảnh mà cần cân nhắc lợi ích với nguy cơ, ở đây là, bệnh nhân ở tình trạng nguy cơ CRBSI cao, hoặc ở đơn vị có tỷ lệ CRBSI cao. Ở đây bao gồm bệnh nhân có nguy cơ CRBSI (nhiều lần CRBSI từ trước và bền bỉ, S.aureus cư trú ở mũi) hoặc cơ sở có tỷ lệ CRBSI cao (≥ 3.5 lần/1000 ngày CVC). Sử dụng dung dịch khóa CVC kháng khuẩn mà không phải kháng sinh có thể là lựa chọn ưu tiên hơn, do đó cho phép lựa chọn đối với nhiễm vi khuẩn kháng kháng sinh.
RCT sử dụng xanh methylene đã nhấn mạnh rằng xem xét lại, đào tạo lại, và thực hiện thực hành chăm sóc CVC có thể đạt được CRBSI thấp (0.8 lần/1000 ngày CVC) [612], nhấn mạnh rằng sử dụng dự phòng kháng sinh nên được sử dụng ở cơ sở có nguy cơ CRBSI ban đầu cao ngay khi thực hiện thực hành chăm sóc CVC và kiểm soát nhiễm khuẩn.
Nghiên cứu tương lai
– Xác định và xác thực bệnh nhân nguy cơ CRBSI cao, bất chấp thực hành chăm sóc CVC và kiểm soát nhiễm khuẩn đã được xác nhận là tuyệt vời.
– Ảnh hưởng của phân tầng nguy cơ bệnh nhân có nguy cơ CRBSI cao và quản lý dự phòng CRBSI, bao gồm các chiến lược tham gia bên ngoài nòng CVC (chân CVC) và chăm sóc dự phòng kháng khuẩn bên trong CVC.
– Vẫn chưa rõ ràng liệu các chiến lược dự phòng nên là mục tiêu cho bệnh nhân, cơ sowe, hay cả hai ở nguy cơ CRBSI cao; cân nhắc ảnh hưởng sử dụng kháng sinh dự phòng rộng rãi và ảnh hưởng cấp của vi sinh vật kháng kháng sinh không chỉ ở mức độ bệnh nhân mà còn ở mức độ đơn vị phải được cân nhắc và nghiên cứu nghiêm ngặt.
Bảng 24.1. Các chiến lược trong nòng CVC: Ảnh hưởng của dịch kháo kháng sinh và kháng khuẩn lên CRBSI: Tổng hợp các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên |
|||||||
Thuốc nghiên cứu | N | RR (95% CI | Tỷ lệ phát sinh CRBSI (95%) dự kiến | Chất lượng bằng chứng | |||
Dịch khóa kháng sinh mà có thể được lựa chọn sử dụng để dự phòng CRBSI | |||||||
Cefotaxime593-595
(3 RCTs) |
227 | 0.42 (0.25-0.72) | Không kháng sinh: 67.5% | Cefotaxim: 23.6% | Trung bình | ||
Gentamicin583-585,596
(4 RCTs) |
555 | 0.18 (0.07-0.46) | Không kháng sinh: 22.1% | Gentamicin: 4.0% (1.5- 10.2) | Trung bình | ||
TPA hàng tuần506
(1 RCT) |
225 | 0.30 0.11-0.85) | Heparin: 13% | TPA hàng tuần: 5% | Trung bình | ||
Cotrimoxazole597
(1 RCT) |
87 | 0.16 (0.04-0.6) | Không kháng sinh: 4.4 mỗi 1000 ngày | Có kháng sinh: 0.58 mỗi 1000 ngày CVC | Thấp | ||
Xanh Methylene598
(1 RCT) |
407 | 0.29 (0.12-0.70) | Heparin: 0.82/1,000 ngày | Methylene blue% 0.24/1,000 ngày | Thấp | ||
Dịch khóa không có ý nghĩa hoặc bằng chứng thấp, không được khuyến cáo (dưới) | |||||||
Taurolidine/citrate 533,599 | 183 | 0.49 (0.20-1.24) | Heparin: 21.5% | Taurolidine/citrate: 10.5% (4.3%-26.7%) | Thấp | ||
Vancomycin hoặc linezolid600
(1 RCT) |
152 | 0.58 (0.32-1.04) | Không kháng sinh: 6.7/1,000 ngày | Có kháng sinh: 17.0% (9.4%-30.5%) | Rất thấp | ||
Cefazolin + gentamicin604 (1 RCT) | 120 | 0.14 | Không kháng sinh: 3.2 mỗi 1000 ngày | Có kháng sinh: 0.44 mỗi 1000 ngày | Rất thấp | ||
Minocycline605 (1 RCT) | 204 | 0.32 (0.14-0.71) | Không kháng sinh: 4.3 mỗi 1000 ngày | Có kháng sinh: 1.1 mỗi 1000 ngày | Không được ERT xem xét | ||
Dung dịch kháng khuẩn | |||||||
EDTA606 (1 RCT) | 117 | 0.34 (0.04-3.24) | Heparin: 1.08 mỗi 1,000 ngày | EDTA: 0.14 mỗi 1,000 ngày | Rất thấp | ||
Ethanol/heparin607
(1 RCT) |
49 | 0.17 (0.02-0.63) | Heparin: 13% | Ethanol/heparin: 4% | |||
Ethanol/citrate608
(1 RCT) |
40 | Heparin: 5% | Ethanol/citrate: 0% | ||||
Nước muối nhược trương544
(1 RCT) |
59 | — | Heparin: 10% | Nước muối nhược trương: 15% | |||
30% citrate528
(1 RCT) |
291 | (0.13-0.36) | Heparin: 4.1 mỗi 1,000 ngày | 30% citrate: 1.1 mỗi 1,000 ngày | |||
46.7% citrate526
(1 RCT) |
232 | — | 46.7% citrate: 0.7 mỗi 1,000 ngày | Heparin: 0.7 mỗi 1,000 ngày | |||
Viết tawstL CRBSI, nhiễm trùng dòng máu liên quan đến catheter; EDTA, , ethylenediaminetetraacetic acid, ERT: Đội tổng hợp bằng chứng; RCT, thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên; TPA, Hoạt tính plasminogen mô |
Hình 24.1. Tỷ lệ sống không nhiễm trùng catheter
Hướng dẫn 23 | Trở lại mục lục | Hướng dẫn 25 |