Lược dịch: BSCKI Nguyễn Thanh Hùng – PTTK VDA
Hướng dẫn 18 | Trở lại mục lục | Hướng dẫn 20 |
Tuyên bố: Quản lý tụ dịch quanh AVG
19.1. KDOQI cân nhắc điều hợp lý với việc theo dõi cẩn thận các biến chứng tụ dịch và điều trị dựa trên từng trường hợp riêng của bệnh nhân và đánh giá và định hướng lâm sàng tốt nhất. (Quan điểm chuyên gia)
Chú ý: định hướng của nhà lâm sàng hoặc bác sỹ phẫu thuật cân nhắc bằng cả tình huống lâm sàng riêng của bệnh nhân và/hoặc kinh nghiệm và mức độ chuyên môn của nhà lâm sàng hoặc bác sỹ phẫu thuật (như năng lực và hạn chế phù hợp).
Giải thích chi tiết
Hình 19.1. Tụ dịch
Tích tụ hoặc tụ dịch có thể hình thành quanh AVG ở ngay giai đoạn sớm sau phẫu thuật, thường ở gần miệng nối [496]. Chúng giống nhu một phình hoặc giả phình (Hình 19.1). Những nơi tụ dịch thưởng do thấm dịch qua chính bản thân vật liệu graft hoặc do các đường bạch mạch xung quanh. Daria và cộng sự [497] báo cáo tỷ lệ phát sinh là 1.7% ở 535 AVG, với tỷ lệ phát sinh cao hơn ở người có AVG cánh tay trên (so với cẳng tay). Sự xuất hiện của tụ dịch xung quanh AVG có thể nhận biết bằng siêu âm. Phần lớn tụ dịch sớm tự giới hạn và có xu hướng hồi phục mà không để lại hậu quả; tuy nhiên, chúng có thể nặng lên khi mà bản thân nó tạo điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng khi mà dịch tụ là môi trường giầu protein. Tụ dịch bền bỉ hoặc hình thành ở giai đoạn sớm sau phẫu thuật có thể yêu cầu tháo và thay AVG, ưu tiên với vật liệu có đường hầm khác qua một miệng nối khác. Rất may mắn, phần lớn tụa dịch quanh AVG có thể hồi phục, và kết quả lâu dài là có thể chấp nhận được [497].
Tuyên bố: Quản lý lưu lượng đường vào cao
19.2. KDOQI cân nhắc điều hợp lý với việc theo dõi chặt chẽ và quản lý dự phòng đường vào AV có lưu lượng cao để tránh các biến chứng nghiêm trọng hoặc không thể hồi phục (như suy tim cung lượng cao), dụa vào từng trường hợp riêng của bệnh nhân và đánh giá và định hướng tốt nhất của nhà lâm sàng. (Quan điểm chuyên gia)
Chú: định hướng của nhà lâm sàng hoặc bác sỹ phẫu thuật cân nhắc cả tình huống lâm sàng riêng của bệnh nhân và/hoặc kinh nghiệm và mức độ chuyên môn của nhà lâm sàng hoặc bác sỹ phẫu thuật (như năng lực và hạn chế phù hợp).
Chú ý: Theo dõi chặt chẽ ưu tiên với khám lâm sàng và tiền sử điều trị lọc máu và chỉ số Qa/CO mỗi 6-12 tháng, hoặc nhiều hơn nếu cần thiết.
Giải thích chi tiết
Lưu lượng đường vào AV cao
Lưu lượng qua đường vào AV tăng có thể là nguồn gốc của nhiều vấn đề, bao gồm suy tim xung huyết tăng cung lượng, tăng áp lực động mạch phổi, hẹp tĩnh mạch trung tâm, tăng áp lực tĩnh mạch, phình động mạch, thoái hóa của AVF, và thiếu máu bàn tay liên quan đến đường vào AV. Ngưỡng chính xác để xác định lưu lượng đường vào AV cao không được xác thực chặt chẽ hoặc được đồng thuận, dù lưu lượng đường vào AV (Qa) từ 1 đến 1.5 L/phút hoăc Qa lớn hơn 20% cung lượng tim (Qa/CO) đã được đề nghị [489]. Đường vào AV có thể có thể làm các triệu chứng của suy tim xung huyết đã tồn tại trầm trọng thêm (thở ngắn và mệt mỏi) và cả việc dẫn đến suy tăng cung lượng, cũng như các tổn thương AVF [499]. Basile và cộng sự [500] báo cáo chỉ số Qa trên 2.0 L/phút có liên quan với sự xuất hiện của suy tim tăng cung lượng, với độ nhạy là 89% và độ đặc hiệu là 100%, trong khi chỉ số Qa/CO có độ nhạy 89% và độ đặc hiệu là 75%. Không đáng ngạc nhiên, triệu chứng của suy tim xung huyết có thể hình thành ở các ngưỡng lưu lượng thấp ở bệnh nhân có bệnh tim mạch. Tần xuất của xác định chỉ số Qa/CO không được thiết lập; Work Group tin rằng siêu âm 2 chiều mỗi 6 đến 12 tháng giúp đánh giá tim mất bù và các thay đổi ở Qa/CO, phụ thuộc vào từng trường hợp bệnh nhân và các nguồn lực tại chỗ, nếu phù hợp. Lưu lượng đường vào AV có thể làm giảm đi bằng sử dụng nhiều biện pháp hoặc băng giảm lưu lượng (Hướng dẫn 18) [501-504]. Có thể dự đoán được rằng, làm tắc đường vào AV tăng lưu lượng làm giảm cung lượng tim và cải thiện phân phối oxi [505].
Hướng dẫn 18 | Trở lại mục lục | Hướng dẫn 20 |