TS Nguyễn Hữu Dũng, BSCKI Nguyễn Thanh Hùng dịch

Xem bản PDF tại đây

Xem danh mục các bài viết liên quan đến tiêm phòng vaccine tại đây

MỤC TIÊU

Cung cấp hướng dẫn tiêm phòng vaccine COVID-19 ở người có nguy cơ tổn thương cao có bệnh thận.

TỔNG QUAN HƯỚNG DẪN

Hướng dẫn này là quan điểm đồng thuận của nhóm chuyên gia về thận học. Hướng dẫn dựa trên các dữ liệu sẵn có tương đối hạn chế về tác dụng của tiêm phòng vaccine COVID-19 ở người có bệnh thận và nên được sử dụng với sự kết hợp với hướng dẫn của từng địa phương và quốc gia. Chúng tôi đã cố gắng đưa ra những khuyến cáo nhưng do bị hạn chế bởi bằng chứng xác thực; Có một sự cần thiết cấp bách cho các nghiên cứu sâu hơn và rõ ràng hơn. Hướng dẫn được viết vào tháng 6 năm 2021 và sẽ được cập nhật tiếp khi có đủ thông tin.

TỔNG HỢP KHUYẾN CÁO

Hướng dẫn này cung cấp đặc biệt đến toàn bộ người bệnh thận nhân tạo hoặc lọc màng bụng, toàn bộ người bệnh ghép thận, người bệnh bệnh thận mạn giai đoạn 5 chưa lọc máu, và người bệnh bệnh thận điều trị ức chế miễn dịch (sau đây được gọi là Bệnh nhân bệnh thận có nguy cơ tổn thương cao, HVKPs). Đối với các mục tiêu đó, điều trị ức chế miễn dịch gồm steroid (cân bằng với prednisolon 20 mg mg/ngày trong 4 tuần trở lên), thấp hơn liều steroid khi phối hợp với thuốc ức chế miễn dịch khác, và điều trị rituximab trong vòng 6 tháng. Hướng dẫn quốc gia (chính phủ) cung cấp cho người bệnh ở giai đoạn sớm của bệnh.

TIÊM PHÒNG VACCINE

Chúng tôi khuyến cáo rằng toàn bộ HVKP tiêm hai liều vaccine được tiếp cận bởi Ủy ban Liên kết về Tạo miễn dịch và Tiêm phòng vaccine (JCVI). Bao gồm cả những bệnh nhân chưa nhiễm COVID-19 và những người đã bị nhiễm bệnh từ trước được xác định bằng xét nghiệm PCR COVID-19 dương tính hoặc bằng chứng miễn dịch có nhiễm bệnh từ trước. Chỉ các trường hợp có chống chỉ định, tiền sử phản ứng phản vệ toàn thân do liều tiêm vaccine trước hoặc do các thành phần (tá dược) của vaccine COVID-19. Các biến cố phản vệ hoặc các phản ứng bất lợi với liều đầu tiên, chúng tôi đề nghị hoàn thành lịch trình tiêm với loại vaccine thay thế khác.

Chúng tôi khuyến cáo rằng người lớn tiếp xúc ở nhà với người HVKP được tiêm hai liều vaccine COVID-19, ưu tiên toàn bộ người tiếp xúc trong gia đình trên 16 tuổi trong trường hợp người bị ức chế miễn dịch nặng được nêu trong khuyến cáo của JCVI1.

Chúng tôi khuyến cáo rằng toàn bộ người HVKP nằm trong danh sách đợi được ghép thận hoặc có thể nằm trong danh sách này được tiêm 2 liều vaccine đã được tiếp cận bởi JVCA trước khi đưa vào danh sách ghép, với lịch hai liều được hoàn thành trước khi bắt đầu thuốc ức chế miễn dịch: trong tình huống này, JVCA khuyến cáo rằng liều thứ hai được tiêm với khoảng cách tối thiểu (3 hoặc 4 tuần)2.

Chúng tôi khuyến cáo rằng toàn bộ HVKP từ chối tiêm vaccine trước đây được giáo dục sâu hơn về tăng tính tổn thương do COVID-19, để chống lại những thông tin sai lệch và xây dựng niềm tin về tính an toàn của vaccine và hiệu quả có thể, như được chứng minh bởi các dữ liệu sớm trên đáp ứng dựa trên xét nghiệm với các loại vaccine COVID-19 ở nhiều HVKP.

Chúng tôi khuyến cáo rằng toàn bộ HVKP chấp nhận liều vaccine thứ ba nên có sẵn.

Chúng tôi hiện nay không thể khuyến cáo xét nghiệm kháng thể kháng COVID-19 định kỳ sau tiêm phòng vaccine với lý do sau:

– Không có loại xét nghiệm kháng thể nào là đủ độ tin cậy một cách nhất quán ở toàn Vương Quốc Anh.

– Chúng tôi cần có sự rõ ràng hơn như mức độ kháng thể có thể có khả năng bảo vệ lâm sàng.

– Hiện nay các kết quả xét nghiệm kháng thể không làm thay đổi các khuyến cáo tiêm phòng và phòng ngừa phơi nhiễm với COVID-19 cho một cá nhân.

– Các Ủy ban đang làm việc để xem xét những xét nghiệm nào có thể cung cấp thông tin về sự bảo vệ một cách đáng tin cậy hơn.

 Các biện pháp phòng ngừa tăng cường để giảm phơi nhiễm COVID-19

Chúng tôi khuyến cáo rằng toàn bộ HVKP và người nhà thường xuyên tiếp xúc liên tục sử dụng các biện pháp phòng ngừa tăng cường (tránh môi trường có nguy cơ cao, bao gồm thảo luận với đồng nghiệp về tối ưu hóa tính an toàn trong COVID-19 trước khi trở lại làm việc; sử dụng liên tục khẩu trang; giãn cách xã hội; gặp gỡ khách hàng ở bên ngoài hoặc ở trong khu vực được thông khí tốt) và nhận lời khuyên từ các chuyên gia y tế trước khi lập kế hoạch di chuyển, ngay sau khi chính phủ nâng cao mức hạn chế cộng đồng. Khuyến cáo này đặc biệt áp dụng cho người bệnh đã được tiêm phòng vaccine trong khoảng thời gian sử dụng rituximab 6 tháng hoặc điều trị giảm tế bào B, và người ghép thận.

Các khuyến cáo trên ứng dụng cho người bệnh bệnh thận lựa chọn không tiêm vaccine.

Chúng tôi khuyến cáo rằng HVKP và người nhà tiếp cận và sử dụng NHS’free, hai lần mỗi tuần sàng lọc xét nghiệm (các triêu chứng nên khai báo yêu cầu xét nghiệm NHS PCR hoặc qua 111 hoặc NHS app).

Điều trị COVID-19

HVKP đã bị nhiễm COVID được điều trị bao vây cho thấy hiệu quả. Điều trị kháng thể trung hòa sớm nhất có thể là sẵn có tại Anh Quốc, chúng tôi khuyến cáo rằng HVKP nhiễm COVID-19 và xét nghiệm kháng thể âm tính nên được ưu tiên điều trị kháng thể trung hòa. Chú ý: thực hiện hướng dẫn này đòi hỏi hướng dẫn xa hơn trên xét nghiệm kháng thể đã được hình thành và, nếu tính trạng kháng thể là không sẵn có, chúng tôi đề nghị rằng HVKP cần nhập viện được sử dụng kháng thể trung hòa.

Nghiên cứu

Chúng tôi khuyến cáo nghiên cứu khẩn cấp biện pháp tốt nhất để bảo vệ HVKP khỏi những người nhiễm COVID-19, bao gồm  các nghiên cứu về liều vaccine, liều tăng cường, phối hợp các loại vaccine khác nhau, và các nghiên cứu về thuốc dự phòng: và chúng tôi khuyến cáo rằng toàn bộ bác sỹ đảm bảo rằng có nhiều đối tượng được đánh giá qua các nghiên cứu đó sớm nhất có thể.

BẰNG CHỨNG KHOA HỌC

Thử nghiệm phase 3 của các loại vaccine Pfizer/BioNTech, Moderna, Astra-Zeneca và Janssen có quá ít người có bệnh thận tiến triển hoặc ngược điều trị ức chế miễn dịch để cung cấp thông tin hữu ích cho hướng dẫn này. Đến nay, 35 nghiên cứu nhỏ nghiên cứu tác dụng của COVID-19 trên rất nhiều khía cạnh  của miễn dịch đã được báo cáo; được tổng hợp trong trên các tạo chí.3. Hầu hết nghiên cứu báo cáo trên ảnh hưởng của vaccine Pfizer/BioNTech mRNA. Hình thành kháng thể IgG kháng gai sau hai liều caccine đã được báo cáo là 70 – 96% bệnh nhân lọc máu và – – 59% ở bệnh nhân ghép thận. Có những báo cáo ca bệnh của tái lại của viêm cầu thận, viêm cầu thận de novo, đào thải mảnh ghép cấp tính, nhưng vẫn chưa được đánh giá. Một tổng hợp cập nhật sẵn có qua địa chỉ: http://www.nephjc.com/news/covid-vaccine.

Một biểu đồ hình học của hình thành kháng thể IgG kháng gai sau tiêm phòng vaccine ở HVKP được chỉ ra trong Hình 1.

Hình 1: Tỷ lệ phần trăm đáp ứng huyết thanh đã được báo cáo trong các nghiên cứu đã được công bố ở người bệnh lọc máu, lọc màng bụng, ghép thận. Ngày sau một, hai mũi tiêm phòng được hiển thị bằng mầu ở các điểm. Kích cỡ mỗi điểm phản ánh số lượng bệnh nhân được kiểm tra ở mỗi điểm. Mỗi điểm được gắn 1 con số, tương ứng với con số của tác giả, bài báo và năm được liệt kê vào bảng ở dưới. Các nghiên cứu được sử dụng rất nhiều các phép đo khác nhau của kháng thể và loại isotype miễn dịch khác nhau đã được báo cáo riêng, chúng tôi sử fungj dữ liệu ứng viên vaccine huyết thanh âm tính. Với một số nghiên cứu, ví dụ, Yi và cs. Có nhiều hơn mợt phương thức bao gồm và, nơi có thể từ nguồn dữ liệu có sẵn, chúng tôi đánh dấu riêng.

ĐÁP ỨNG KHÁNG THỂ VỚI TIÊM VACCIEN TRONG CÁC NGHIÊN CỨU

Như đã được thảo luận chi tiết trong tổng hợp, có rất nhiều xét nghiệm kháng thể đã được sử dụng trong các nghiên cứu đó. Tính tin cậy dữ liệu là không có trên mối tương quan giũa hiệu giá kháng thể sử dụng xét nghiệm mà mức độ bảo vệ mà hiệu giá đó mang lại. Trong khi tính hợp lý rằng hiệu giá kháng thể cao hơn, trong bất kỳ loại xét nghiệm nào, chỉ ra mức độ bảo vệ cao hơn, hiện nay có thể chấp nhận rằng, với bất kỳ loại xét nghiệm nào, một mức độ “ngưỡng” mừ HVKP có thể giải định có mức độ tương tự với khả năng bảo vệ quan sát được trong cộng đồng. Điều quan trọng là, tiêm phòng vaccine có thể có khả năng bảo vệ thấp hơn đối với các chủng SARS-CoV-2 mới, như biến chủng Delta. Các xét nghiệm trung hòa in vitro, xét nghiệm này sử dụng huyết thanh của người bệnh để bất hoạt virus sống (và do đó cho phép xét nghiệm với nhiều biến chủng virus khác nhau) là tin cậy nhất cho đánh giá khả năng bảo vệ như không được sử dụng rộng rãi4.

Nhóm hướng dẫn đã chú ý cẩn thận bằng chứng này để thông tin về lời khuyên trên làm thế nào để khuyên bệnh nhân có được một xét nghiệm kháng thể sau tiêm phòng vaccine hai liều. Nhiều bệnh nhân được chú ý là dưới mức hy vọng của sự hiểu biết các mức độ nguy cơ sau tiêm phòng. Tuy nhiên, sự thiếu vắng bằng chứng đáng tin cậy, cho mỗi loại xét nghiệm sẵn có tại UK về cái gì tạo thành mức độ kháng thể bảo vệ – và khả năng bảo vệ này kéo dài bao lâu – rất tiếc cho đến nay vẫn không thể định nghĩa được thế nào là “xét nghiệm dương tính”. Ngược lại, bệnh nhân có xét nghiệm âm tính vẫn còn miễn dịch trung gian tế bào T và do đó có thể bảo vệ tốt hơn kết quả kháng thể đã đề nghị.

Nền tảng RECOVERY gần đây báo cáo rằng tiêm kháng thể đơn dòng trung hòa, thêm vào điều trị tiêu chuẩn, cải thiện các kết ủa ở phân nhóm bệnh nhân nhiễm COVID-19 có xét nghiệm huyết thanh âm tính (sử dụng xét nghiệm ELISA gián tiếp tìm kháng thể IgG kháng gai)5. Nếu, có thể, kết quả thử nghiệm này thay đổi thực hành lâm sàng điều trị nhiễm COVID-1 tại UK, sau đó cần nhanh chóng xác định tình trạng miễn dịch (xét nghiệm định kỳ cho toàn bộ bệnh nhân nguy cơ) sẽ là cần thiết để đảm bảo rằng điều trị đắt tiền này chỉ nên ưu tiên cho người bệnh huyết thanh âm tính.

Các nghiên cứu đến nay đã xác định một số yếu tố tiên lượng của đáp ứng kháng thể kém với tiêm phòng vaccine, nhiều yếu tố trong đó là yếu tố không thay đổi (ví dụ như tuổi).

Các yếu tố nguy cơ đáp ứng kém ở bệnh nhân thận nhân tạo

– Tuổi cao

– Sử dụng đồng thời các thuốc ức chế miễn dịch.

Các yếu tố nguy cơ sau đây của đáp ứng kém ở bệnh nhân ghép thận đã được xác định:

– Tuổi cao

– Thuốc ức chế miễn dịch ba loại (cyclosporine-azathioprine-prednisone liều thấp)

– Mycophenolate

– steroid liều cao

– Belatacep

– Tiêm vaccine trong năm đầu tiên ghép thận.

ẢNH HƯỞNG CỦA TIÊM VACCINE Ở NGƯỜI SỬ DỤNG THUỐC ỨU CHẾ MIỄN DỊCH KHÔNG GHÉP THẬN.

Không có dữ liệu công bố nào trên tính sinh miễn dịch/tính hiệu quả tiêm phòng vaccne COVID-19 đặc hiệu ở bệnh nhân bệnh thận trung gian miễn dịch6. Tuy nhiên, có một số nhỏ kiểm tra tính sinh miễn dịch ở đoàn hệ bệnh nhân thấp khớp. Lớn nhất trong các nghiên cứu đó, một nghiên cứu đa tung tâm từ Israel, kiểm tra gần 700 bệnh nhân, gồm một số ít bệnh nhân lupus và viêm mạch, được tiêm 2 liều vaccine mRNA Pfizer, báo cáo chuyển đổi huyết thanh 86%7. Các yếu tố người bệnh liên quan với không chuyển đổi huyết thanh bao gồm tuổi tăng lên và viêm mạch máu liên quan đến ANCA (AAV) hoặc viêm đa cơ. Các điều trị liên quan với không chuyển đổi huyết thanh gồm rituximab, glucocorticoids và mycophenolate mofetil (MMF).

Tác động đáng kể của rituximab trên đáp ứng huyết thanh với vaccine mRNA đã được xác nhận trong một số ít nghiên cứu ở cộng đồng thấp khớp và không được kỳ vọng10.

Dữ liệu không công bố từ Trường cao đẳng Imperial chỉ ra rằng mât tế bào B ở thời điểm tiêm phòng vaccine (và bằng mối liên quan, thời gian tính từ khi tiêm phòng vaccin) có một tác động đáng kể lên đáp ứng huyết thanh với vaccine (chuyển đổi 41% nếu được điều trị dưới 6 tháng trước so với 71% chuyển đổi huyết thanh nếu được điều trị trên 6 tháng). Hầu hết bệnh nhân tiêu tế bào B đã không thể phát hiện được đáp ứng tế bào T. Dù không có dữ liệu sẵn có cho cyclophosphamide, chúng tôi có lẽ nghi ngờ hiệu quả trên đáp ứng chuyển đổi huyết thanh là có thể so sánh với tác dụng tiêu tế bào B tuần hoàn của cyclophosphamide.

Chúng tôi do đó tiếp tục khuyên tiêm phòng ở toàn bộ bệnh nhân ức chế miễn dịch, boa gồm những ngưởi được điều trị tiêu tế bào B, khi mà vaccine hiện vẫn có một vài tính sinh miễn dịch và do đó có thể có một số khả năng bảo vệ khơi nhiễm bệnh và bệnh nặng. Tuy nhiên, khi mà đáp ứng huyết thanh học khá kém, chúng tôi khuyến cáo rằng bệnh nhân  đã tiêm phòng vaccine dưới điều kiện điều trị tiêu tế bào B dưới 6 tháng (bao gồm cả cylophosphamide nên tiếp tục sử dụng các biện pháp phòng ngừa tăng cường.

Chúng tôi khuyến cáo rằng tiêm vaccine được hoàn thành (ví dụ 2 liều) trước khi nhận liều rituximab liều sau và có khoảng cách 4 tuần giữa tiêm vaccine và điều trị rituximab lần sau, ở nơi mà an toàn để thực hiện (như bệnh nhân với tình trạng bệnh ổn định ở nguy cơ tái phát thấp). Hướng dẫn này là nhất quán với hướng dẫn ở cả UK Arthritis và Musculoskeletal Alliance (ARMA) và American College of Rheumatology (ACR)11.12. Không có dữ liệu trên tác động của rituximab sau tiêm vaccine (như toàn bộ dữ liệu đã công bố liên quan tới tiêm vaccine sau khi điều trị rituximab), nhưng kỳ vọng rằng tiêm vaccine ở bệnh nhân chưa dùng rituximab sẽ làm tế bào máu đặc hiệu S sống kéo dài mà không nên tác động trực tiếp bởi điều trị rituximab (tế bào huyết tương cư trú tủy xương đã được chứng minh sau nhiễ SARS-CoV-2 tự nhiên).

Có một số bằng chứng (với không vaccine COVID, ở cộng đồng thấp khớp mà dừng ức chế miễn dịch 1 – 2 tuần sau tiêm vaccine có thể cải thiện đáp ứng miễn dịch. Sự thật, hướng dẫn ACR khuyên dừng MMF hoặc methotrexat (MTX) 1 – 2 tuần sau tiêm phòng vaccine ở bệnh nhân có tình trạng bệnh ổn định, bệnh được kiểm soát tốt12 Tuy nhiên, các khuyến cáo đó không áp dụng cho người bệnh bệnh thận trung gian miến dịch, nhóm bệnh nhân này có nguy cơ và hậu quả của bùng phát bệnh lớn hơn nhiều so với bệnh nhân thấp khớp. Chúng tôi do đó không khuyên cáo dừng thuốc ức chế miễn dịch duy trì ở khoảng thời gian xung quanh tiêm phòng vaccine ở nhóm bệnh nhân chúng tôi. Điều này tương tự với dừng MTX định kỳ ở bệnh nhân viêm khớp dạng tháp nhập viện nội trú; chúng tôi sẽ không làm tương tự với MMF ở bệnh nhân ghép thận.

Có báo cáo ca bệnh của bùng phát bệnh cầu thận liên quan đến tiêm phòng vaccine (gồm bệnh thận IgA, hội chứng thận hư, AAV, bệnh kháng thể kháng màng đáy cầu thận) dù không thể chứng minh quan hệ nguyên nhân – kết quả13. Chúng tôi tin tưởng rằng lợi ích của vaccine lớn hơn một vài nguy cơ nhỏ của tái phát, và tiêm phòng vaccine được khuyến cáo cho toàn bộ bệnh nhân.

CÁC NGHIÊN CỨU ĐĂNG KÝ VÀ BẰNG CHỨNG ĐANG ĐỢI KẾT QUẢ

Một nghiên cứu lớn sử dụng xét nghiệm trung hòa in vitro (ở Crich Institute) là kiểm chứng hiệu quả của tiêm phòng vaccine COVID-19 ở HVKP. Kết quả sơ bộ ban đầu được kỳ vọng trong tuần: khi có sẵn, hướng dẫn này sẽ được tổng hợp lại, và nếu cần, bổ xung lại.

Nghiên cứu The Scottish Renal Registry (với dữ liệu trên 5000 bệnh nhân điều trị thay thế thận tại Scotland) và Registry at NHS Blood and Transplant (NHSBT với dữ liệu trên toàn bộ bệnh nhân trong danh sách đợi hoặc mới được ghép tạng) đã được sẵn sàng nghiên cứu sẽ đem đến dữ liệu dịch tễ học trên tỷ lệ phát sinh và kết quả nhiễm COVID-19 bằng PCR, liên kết với tình trạng tiêm phòng vaccine, ở đoàn hệ lớn bệnh nhân lọc máu và ghép thận. The Scottish Renal Registry (cơ quan quản lý dữ liệu về tất cả bệnh nhân thay thế thận trên toàn Vương quốc Anh) đang khẩn trương tìm kiếm mối liên hệ với dữ liệu này để nâng cao hiểu biết về hiệu quả của vắc-xin và do đó sẽ bổ sung thêm hiểu biết về bệnh nhân thận nhân tạo và lọc màng bụng khi có sẵn.

Dữ liệu sớm từ giai đoạn tháng 12 năm 2020 đến 24 tháng 6 năm 2021 từ NHSBT, cho thấy rằng 6724 bệnh nhân ghép tạng không tiêm vaccine, 446 (7%) có nhiễm COVID-19 xác nhận bằng PCR với 198 (40%) tử vong. Ở 41.258 bệnh nhân tiêm một liều vaccine, 316 (0.8%) nhiễm COVID-19 xác nhận bằng PCR sau 14 ngày sau tiêm liều đầu tiêm, có 32 bênh nhân (10%) tử vong. Trong 39.280 bệnh nhân hoàn thành hai liều vaccine, 76 (0.2%) có nhiễm COVID-19 xác nhận bằng PCR 14 ngày sau tiêm liều thứ hai, trong số đó, 6 (8%) tử vong. Các phát hiện đó đã được điều chỉnh theo các yếu tố nguy cơ14.

Nghiên cứu OCTAVE với 5000 bệnh nhân ức chế miễn dịch toàn thân, gồm một đoàn hệ lớn HVKP, nghiên cứu hiệu quả tiêm phòng vaccine.

Nhiều nghiên cứu đơn trung tâm được tiến hành, bao gồm đánh giá toàn diện hiệu quả tiêm phòng vaccine ở HVKP ở Imperial College, London.

PROTECH là một thử nghiệm nền tảng điều tra thuốc dự phòng nhiễm COVID-19 ở HVKP. Thuốc đầu tiên điều tra là công thức nhỏ mũi Niclosamide.

TỔNG HỢP

Chúng tôi khuyến cáo tiêm phòng 2 liều vaccine ở tất cả mọi người có bệnh thận, ở bất kỳ giai đoạn nào.

Chúng tôi khuyến cáo người có bệnh thận được cung cấp và nhận một liều tăng cường.

Chúng tôi khuyến cáo rằng người có bệnh thận dường như có đáp ứng thấp hơn với tiêm phòng vaccine tiếp tục sử dụng các biện pháp giãn cách xã hội và các biện pháp phòng ngừa, ngay cả sau khi có các thay đổi hướng dẫn của chính phủ liên quan đến cộng đồng.

Chúng tôi không khuyến cáo giảm liều thuốc ức chế miễn dịch trong tiêm phòng vaccine.

Chúng tôi khuyến cáo Lateral Flow Tests và tiêm phòng vaccine cho toàn bộ người nhà sống cùng người bệnh.

Chúng tôi khuyến cáo rằng bệnh nhân nói chuyện với đồng nghiệp và hỏi về đánh giá nguy cơ trước khi trở lại với công việc của mình.

https://www.kidneycareuk.org/news-and-campaigns/news/half-millionpeople-not-protected-covid-19-vaccines-need-workplace-support/.

Nghiên cứu sâu hơn

Các nghiên cứu sâu hơn cần thiết để trả lời các câu hởi, gồm:

– Liệu liều vaccine thứ ba có cải thiện đáp ứng miễn dịch ở người không hình thành kháng thể sau hai liều vaccine chuẩn không? Thời điểm tiêm liều thứ ba là gì?

– Các yếu tố tiên lượng có thể thay đổi được của đáp ứng kém với hai liều vaccine trong lọc máu, ghép thận và bệnh thận điều trị ức chế miễn dịch là gì?

– Sự phối hợp các loại vaccine khác nahu có khả năng bảo vệ lớn hơn không?

– Chỉ số tiên lượng của xét nghiệm kháng thể sau tiêm phòng vaccine ở HVKP là gì?

THAM KHẢO

  1. https://www.england.nhs.uk/coronavirus/publication/vaccination-of-adult-household-contacts-of-severely-immunosuppressed-individuals-alongside-jcvipriority-cohort-6-and-completion-of-cohorts-1-9/).
  2. https://www.gov.uk/government/publications/covid-19-the-green-book-chapter14a.
  3. Carr EJ et al. Early Immune Response to SARS-CoV-2 Vaccination Among Patients with Chronic Kidney Disease: A Narrative Review. Accepted for publication.
  4. Khoury DS, Cromer D, Reynaldi A, Schlub TE, Wheatley AK, Juno JA, Subbarao K, Kent SJ, Triccas JA, Davenport MP. Neutralizing antibody levels are highly predictive of immune protection from symptomatic SARS-CoV-2 infection. Nat Med 2021. https://doi.org/10.1038/s41591-021-01377-8
  5. Horby PW, Mafham M, Peto L, Campbell M, Pessoa-Amorim G, Spata E, Staplin N, Emberson JR, Prudon B, Hine P, Brown T, Green CA, Sarkar R, Desai P, Yates B, Bewick T, Tiberi S, Felton T, Baillie JK, Buch MH, Chappell LC, Day JN, Faust SN, Jaki T, Jeffery K, Juszczak E, Lim WS, Montgomery A, Mumford A, Rowan K, Thwaites G, Weinreich DM, Haynes R, Landray MJ. Casirivimab and imdevimab in patients admitted to hospital with COVID-19 (RECOVERY): a randomised, controlled, openlabel, platform trial. medRxiv 2021: 2021.06.15.21258542. https://doi.org/10.1101/2021.06.15.21258542
  6. Kronbichler A, Anders HJ, Fernandez-Juarez GM, Floege J, Goumenos D, Segelmark M, Tesar V, Turkmen K, van Kooten C, Bruchfeld A, Immunonephrology Working Group of the E-E. Recommendations for the use of COVID-19 vaccines in patients with immune-mediated kidney diseases. Nephrology, dialysis, transplantation : official publication of the European Dialysis and Transplant Association – European Renal Association 2021. https://doi.org/10.1093/ndt/gfab064
  7. Furer V, Eviatar T, Zisman D, Peleg H, Paran D, Levartovsky D, Zisapel M, Elalouf O, Kaufman I, Meidan R, Broyde A, Polachek A, Wollman J, Litinsky I, Meridor K, Nochomovitz H, Silberman A, Rosenberg D, Feld J, Haddad A, Gazzit T, Elias M, Higazi N, Kharouf F, Shefer G, Sharon O, Pel S, Nevo S, Elkayam O. Immunogenicity and safety of the BNT162b2 mRNA COVID-19 vaccine in adult patients with autoimmune inflammatory rheumatic diseases and in the general population: a multicentre study. Annals of the rheumatic diseases 2021. https://doi.org.10.1136/annrheumdis-2021- 220647
  8. Spiera R, Jinich S, Jannat-Khah D. Rituximab, but not other antirheumatic therapies, is associated with impaired serological response to SARS- CoV-2 vaccination in patients with rheumatic diseases. Annals of the rheumatic diseases 2021. http://dx.doi.org/10.1136/annrheumdis-2021-220604
  9. Boyarsky BJ, Ruddy JA, Connolly CM, Ou MT, Werbel WA, Garonzik-Wang JM, Segev DL, Paik JJ. Antibody response to a single dose of SARS-CoV-2 mRNA vaccine in patients with rheumatic and musculoskeletal diseases. Annals of the rheumatic diseases 2021. https://doi.org/10.1136/annrheumdis-2021-220289
  10. Ruddy JA, Connolly CM, Boyarsky BJ, Werbel WA, Christopher-Stine L, Garonzik Wang J, Segev DL, Paik JJ. High antibody response to two-dose SARS-CoV-2 messenger RNA vaccination in patients with rheumatic and musculoskeletal diseases. Annals of the rheumatic diseases 2021. http://dx.doi.org/10.1136/annrheumdis2021-220656
  11. Principles for COVID-19 Vaccination in Musculoskeletal and Rheumatology for Clinicians (Version 3). Arthritis and Musculoskeletal Alliance. http://armauknet/covid-19-vaccination-and-msk/2021 .
  12. Curtis JR, Johnson SR, Anthony DD, Arasaratnam RJ, Baden LR, Bass AR, Calabrese C, Gravallese EM, Harpaz R, Kroger A, Sadun RE, Turner AS, Anderson Williams E, Mikuls TR. American College of Rheumatology Guidance for COVID-19 Vaccination in Patients with Rheumatic and Musculoskeletal Diseases – Version 1. Arthritis & rheumatology 2021. https://doi.org/10.1002/art.41734
  13. Bomback AS, Kudose S, D’Agati VD. De Novo and Relapsing Glomerular Diseases After COVID-19 Vaccination: What Do We Know So Far? American Journal of Kidney Diseases. DOI: https://doi.org/10.1053/j.ajkd.2021.06.004
  14. https://www.organdonation.nhs.uk/get-involved/news/latest-nhs-advice-on-covid-19-vaccine-for-patients-and-recipient